Bác sĩ Lim Hong Liang, chuyên gia tư vấn ung thư cấp cao đến từ Trung tâm Parkway Singapore cho biết các phương pháp điều trị đã phát triển qua nhiều năm hiện nay gồm xạ trị, hóa trị và trúng đích. Mỗi phương pháp mang lại cho bệnh nhân hy vọng và là một bước tiến trong cuộc chiến chống lại ung thư. Việc bổ sung liệu pháp miễn dịch đánh dấu một cột mốc quan trọng.
Khó khăn nhất trong công tác điều trị bệnh này là tế bào ung thư có khả năng “ngụy trang” rất tinh vi. Nó khiến hệ thống miễn dịch của cơ thể không phát hiện được để tiêu diệt. Dần dần, ung thư làm suy yếu hệ thống miễn dịch của người bệnh, ức chế khả năng phòng vệ tự nhiên của cơ thể và khả năng nhận diện tế bào ung thư.
Các bác sĩ Trung tâm ung thư Parkway tham gia hội thảo chuyên đề “Liệu pháp trúng đích và liệu pháp miễn dịch trong điều trị ung thư” được tổ chức tại TP HCM. |
Sự ra đời của liệu pháp miễn dịch sẽ tăng cường sức khỏe hệ thống miễn dịch của người bệnh, giúp cơ thể nhận diện những kháng nguyên của khối u mà trước đó không được phát hiện. Khi các tế bào ác tính này được phát hiện, hệ thống miễn dịch sẽ loại bỏ chúng ra khỏi cơ thể hiệu quả. Theo thời gian, hệ thống miễn dịch sẽ được huấn luyện để có thể nhận biết và tiêu diệt các tế bào ung thư, giúp cơ thể bảo vệ hiệu quả trong thời gian dài.
“Liệu pháp này có thể làm ngưng hoặc chậm sự tăng trưởng tế bào ác tính, ngăn ngừa chúng xâm lấn sang các bộ phận khác của cơ thể. Bên cạnh đó, nó còn giúp hệ thống miễn dịch hoạt động tốt hơn nhằm tiêu diệt tế bào ung thư”, bác sĩ chia sẻ.
Đây là phương pháp điều trị bằng hệ thống miễn dịch cá nhân chống lại tế bào ung thư. Liệu pháp này đã được chấp thuận bởi Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA). Bác sĩ Ang Peng Tiam, Giám đốc Y khoa Trung tâm Ung thư Parkway, từng nhận giải thưởng quốc gia về Khoa học và Công nghệ về những đóng trong nghiên cứu liệu pháp miễn dịch điều trị ung thư phụ khoa cho biết: “Việc phê duyệt liệu pháp miễn dịch hứa hẹn niềm hy vọng mới trong nghiên cứu và điều trị tế bào ác tính”.
Các bác sĩ tham gia thuyết trình (từ trái qua): Bác sĩ See Hui Ti (chuyên khoa Vú và phụ khoa),bác sĩ Foo Kian Fong (chuyên khoa tiêu hóa), bác sĩ Lim Hong Liang (chuyên khoa phổi và đầu mặt cổ). |
Liệu pháp trúng đích được đưa vào điều trị lần đầu tiên cho bệnh ung thư phổi năm 2003 bằng một loại thuốc có tên là Iressa. Ban đầu nó chỉ là một công cụ hạn chế sự phát triển của các tế bào ác tính. Qua thời gian, các chuyên gia đã sử dụng phương pháp điều trị trúng đích hiệu quả cao hơn. Năm 2015, liệu pháp đã được phê duyệt và chấp thuận đưa vào điều trị lần đầu tiên cho bệnh ung thư phổi.
Theo bác sĩ, nhiều thử nghiệm lâm sàng và nghiên cứu về miễn dịch đang được tiến hành. Tuy nhiên, sự ra đời của phương pháp điều trị miễn dịch mang lại hy vọng cung cấp cho bệnh nhân cách điều trị mới hiệu quả cao và tác dụng phụ thấp hơn.
Bác sĩ See Hui Ti, chuyên gia tư vấn ung thư của Parkway cho rằng, tương tự các phương pháp điều trị khác, liệu pháp miễn dịch sẽ có những hạn chế. Tuy nhiên, bác sĩ sẽ tư vấn rõ hơn cho bệnh nhân về ưu và nhược điểm của nó.
Các bác sĩ nhận được nhiều câu hỏi từ người tham dự. |
Bác sĩ Foo Kian Fong, chuyên gia cấp cao về điều trị ung thư ở Singapore cũng cho rằng liệu pháp miễn dịch là một phương pháp điều trị triển vọng, đặc biệt trong điều trị ung thư phổi và u ác tính. Dù vậy, bệnh nhận được chẩn đoán giai đoạn đầu hoặc đang phản ứng tốt với điều trị khác nên tiếp tục và không chuyển sang liệu pháp miễn dịch.
Liệu pháp miễn dịch cũng đã được chứng minh có hiệu quả trong điều trị bệnh Hodgkin (một dạng ung thư bạch huyết) và ung thư vú âm tính với cả 3 kháng thể, ung thư đại tràng dạ dày, ung thư đầu và cổ. Tuy nhiên, hiện nay, các loại thuốc miễn dịch chưa được chứng minh hiệu quả trong điều trị giai đoạn sớm.
Đối với những bệnh nhân ung thư đã phát triển hoặc di căn, đặc biệt là những người đã thất bại trong phương pháp điều trị thông thường, liệu pháp mới cung cấp hy vọng mới, đặc biệt với trường hợp khối u có PD – L1 dương tính.
Vai trò chính của liệu pháp là tái khởi động hệ thống miễn dịch nên có thể gây tác dụng phụ như làm tổn thương các mô bình thường dẫn đến viêm phổi, khó thở, phát ban da, hạ huyết áp thoáng qua và các triệu chứng giống cúm. Tác dụng tích cực của phương pháp thường thể hiện rõ sau khi đủ liệu trình điều trị.